Mặc dù, tôm càng xanh là đối tượng thủy sản nuôi không đem lại lợi nhuận cao như đối với tôm nuôi nước lợ nhưng ít rủi ro dịch bệnh và có hiệu quả ổn định. Do đó, ở những vùng có điều kiện nuôi đối tượng này hay ở những ao nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng có thể thả nuôi luân canh với tôm càng xanh ở thời điểm nước ngọt để gia tăng lợi nhuận trên cùng diện tích ao nuôi và nhất là cắt mầm bệnh tôm nuôi nước lợ ở vụ nuôi sau.
Tập tính tôm càng xanh
Tôm càng xanh là loài giáp xác có vòng đời khá đặc biệt. Ở giai đoạn ấu trùng 18-35 ngày sau khi nở, tôm phải sống trong nước lợ, sang giai đoạn tôm bột đến tôm trưởng thành tôm sống chủ yếu trong nước ngọt nhưng có thể sống và sinh trưởng bình thường trong nước có độ mặn dưới 10‰.
Tôm càng xanh không tăng trưởng liên tục mà tăng trưởng sau mỗi lần lột xác. Sinh trưởng của tôm đực và tôm cái gần như tương đương nhau cho tới khi đạt kích cỡ 35-40g, sau đó chúng khác nhau rõ theo giới tính, tôm đực sinh trưởng nhan hơn tôm cái và đạt trọng lượng cơ thể gấp đôi tôm cái trong thời gian nuôi.
Chu kỳ lột vỏ tức thời giữa 2 lần lột vỏ liên tiếp nhau sẽ tùy thuộc vào kích cỡ, tình trạng sinh lý, điều kiện dinh dưỡng và môi trường…, tôm nhỏ có chu lỳ lột xác lớn hơn tôm lớn. Tôm càng xanh đẻ quanh năm nhưng ở ĐBSCL có hai mùa đẻ chính là tháng 4-6 DL và tháng 8-10 DL.
Tôm càng xanh thích nghi với phạm vi nhiệt độ rộng từ 18-380C, tốt nhắt từ 26-310C; pH thích hợp nhất cho tôm càng xanh là 6,5-8,5l tôm phát triển tốt trong môi trường có hàm lượng oxy hòa tan từ 4-6mg/l; tôm thích ảnh sáng vừa, ao thông thoáng. Tôm có tính hướng quang vào ban đêm kho có luồng ánh sáng thì tôm sẽ tập trung lại, tôm lớn có tính hướng quang kém hơn tôm nhỏ.
Tôm thích hợp nồng độ muối từ 0-7‰ , tôm trưởng thành sinh trưởng tốt ở vùng cửa sông ven biển. Tôm càng xanh thích ăn những loại thức ăn có nguồn gốc động vật như côn trùng, ốc, xác động vật khác… Ngoài ra, tôm cũng có khả năng ăn những loại thức ăn chế biến và các loại như khoai mì, gạo tấm nấu chín, khoai lang, cơm dừa…, tôm ăn mạnh vào buổi tối.
Những lưu ý trong khâu ương giống
Tôm càng xanh có thể ương bằng ao đất, ương trong bể xi măng hoặc vải bạt. Đối với ương bằng ao đất, trước hết cần chọn ao ương thông thoáng, gần nguồn nước để dễ dàng trong việc cấp thoát nước, có diện tích từ 500 – 1000m2. Độ sâu của ao từ 0,8 – 1,2m. Ao phải sên bùn đáy, vệ sinh bờ ao thật kĩ và có lưới chắn xung quanh để tránh địch hại. Cải tạo rải vôi với lượng 7- 10 kg/100m2, phơi nắng đến khi nền đáy nứt chân chim là tốt nhất.
Đối với ương bằng bể xi măng hay vải bạt, mỗi bể nên có diện tích từ 50-100 m2, độ sâu bể 0,8- 1,0 mét. Bể ương cần chuẩn bị với các khâu như: vệ sinh bể, vải bạt thật sạch sẽ. Lấy nước vào bể 2- 3 ngày thì tiến hành thả tôm post vào ương. Mật độ ương từ 150- 200 con/m2. Đặc biệt là phải sục khí để đảm bảo đủ oxy cho tôm hô hấp. Về chăm sóc, quản lý cho ăn giống như hình thức ương tôm trong ao đất.
Sau đó lấy nước vào ao qua lưới lọc, bón phân chuồng ủ oai với liều lượng 15- 20 kg/100 m2, phân vô cơ 0,3- 0,5 kg/100 m2, từ 7- 10 ngày sau khi lấy nước vào ao thì tiến hành thả tôm post vào để ương. Tôm post đạt cỡ post 15, kích cỡ đồng đều, bơi lội nhanh lẹ. Thuần độ mặn của nước trong bao vận chuyển tôm post và nước của ao ương không chênh lệch về độ mặn để tránh tôm bị sốc. Mật độ ương từ 100- 150 con/m2.
Cho ăn ngày 2- 3 lần bằng các loại thức ăn viên có hàm lượng đạm từ 35- 40%, kích cỡ thức ăn tùy giai đoạn ương mà cho ăn với cỡ cho phù hợp. Lượng thức ăn hàng ngày từ 10-15% tổng trọng lượng đàn tôm ương. Khi cho tôm ăn phải tạt thức ăn đều khắp ao và nên đặt gió để kiểm tra và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Sau thời gian ương 30-45 ngày tôm đạt kích cỡ chiều dài từ 2- 3 cm thì tiến hành thu hoạch bằng cách kéo lưới để bắt đem nuôi hoặc xuất bán, không nên ương thời gian kéo dài tôm ương hao hụt nhiều và vận chuyển khó khăn hơn.
Kỹ thuật cần tuân thủ trong hoạt động nuôi
Chuẩn bị ao và cải tạo ao nuôi tôm càng xanh thương phẩm cũng giống như nuôi các đối tượng khác. Đầu tiên là chọn vị trí ao nuôi nên gần nguồn nước để dễ dàng thay nước và cấp nước khi cần thiết, đặc tính ăn của tôm càng xanh là động vật (cá, ốc, cua xay,…) rất dễ làm hư, thối nước. Tiếp theo là bơm cạn ao, vét bùn đáy, vệ sinh xung quanh bờ ao, bón vôi với lượng: 7- 10 kg/m2, phơi nắng 3-4 ngày rồi lấy nước vào ao qua lưới lọc với độ sâu: 0,8 – 1,2 mét là thích hợp cho nuôi tôm càng xanh.
Sau thời gian lấy nước vào từ 7- 10 ngày lúc đó nước trong ao có màu xanh đọt chuối non chứng tỏ ao giàu dinh dưởng, nhiều phiêu sinh vật thì tiến hành thả tôm giống vào để nuôi. Tôm giống có thể chọn từ nguồn giống tự nhiên và giống sản xuất nhân tạo. Tuy nhiên nên chọn giống nhân tạo để nuôi vì có nhiều ưu điểm hơn. Chọn tôm giống có màu sắc sáng đặc trưng của loài, kích cỡ đồng đều, cơ thể cân đối, khỏe mạnh, không dị hình, dị tật. Chiều dài thân tôm giống đạt từ 2-3 cm đối với giống nhân tạo và từ 4- 6 cm đối với giống tự nhiên.
Mật độ thả nuôi tôm càng xanh từ 5- 7 con/m2. Nuôi tôm càng xanh có thể nuôi ghép với cá sặc rằn, cá mè trắng để tận dụng thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao, đồng thời lọc nước ao nuôi hạn chế nước ao nuôi quá quá xanh, dơ làm tôm nuôi bị đóng rong, thiếu ôxy. Tôm càng xanh có thể nuôi quanh năm tốt nhất là từ tháng 4- 12 hàng năm.
Do tôm có tập tính hoạt động mạnh về đêm nên cho ăn ngày 02 lần vào lúc 5-6 giờ sáng và 5-8 giờ chiều. Loại thức ăn cho ăn bằng thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 30-40%, hoặc thức ăn tự chế như cua, ốc, cá vụn, khoai mì, dừa khô,… Lúc mới thả cho đến 1 tháng nuôi cho ăn mỗi ngày với lượng: 8-10% tổng trọng lượng đàn tôm nuôi. Sau 01 tháng nuôi mỗi ngày cho ăn với lượng 5- 7% tổng trọng lượng đàn tôm nuôi. Tuy nhiên trong quá trình cho ăn nên quan sát xem lượng thức ăn thừa hay thiếu mà ta điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Chú ý nên bổ sung thêm VitaminC và Premix để tăng sức đề kháng cho tôm nuôi.
Thường xuyên theo dõi hoạt động của tôm nhất là vào ban đêm, xem màu nước ao, để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp không nên cho ăn quá thừa dễ làm hư thối nước; khi phát hiện tôm bị bệnh thì phải điều trị ngay. Định kỳ thay nước để nước đảm bảo tốt cho tôm phát triển và lột xác nhanh lớn; Sau thời gian nuôi được 2- 3 tháng nên thu tỉa tôm cái vì lúc này tôm ôm trứng nuôi chậm lớn.Hằng ngày nên kiểm tra bờ ao, cống bọng, tránh tôm bị thất thoát.
Định kỳ diệt cá tạp, cá dữ 2 tháng/lần với Sapotech liều lượng 0,5kg/100m3 nước hoặc rễ cây thuốc cá 0,5 kg/ 100m3 nước. Sau thời gian nuôi 6-8 tháng nuôi, tôm đạt kích cỡ thương phẩm từ 30- 40gr/con thì tiến hành thu hoạch để bán.
Các loại bệnh thường gặp
Bệnh đóng rong: Tôm bệnh khi môi trường nước xấu, thức ăn không đảm bảo số lượng, chất lượng, chế độ thay nước không tốt dẫn đến môi trường nước bị ô nhiễm, tảo phát triển nhiều, tôm bỏ ăn suy dinh dưỡng hay nền đất dơ bẩn. Khi tôm bệnh nhìn bên ngoài sẽ thấy lớp tảo, rong bám khắp mình tôm. Bị nhiễm bệnh nhiều tôm sẽ khó di chuyển và lột xác, trao đổi khí khó khăn và gây chết khi hàm lượng Oxy thấp.
Để phòng bệnh đóng rong cần luôn giữ môi trường nước ao nuôi tốt, tránh sự tích tụ nhiều chất hữu cơ ở lớp bùn đáy, cho tôm ăn các loại thức ăn đảm bảo chất lượng. Khi tôm bệnh dùng phèn xanh (CuSO4) 100g/100m3 nước hay formol với liều lượng 2-2,5 lít/100m3 nước để xử lý tôm bệnh.
Bệnh đốm đen: Do tôm bị sốc hay tổn thương do tác động bên ngoài làm tôm suy yếu, môi trường nước bên ngoài không tốt dẫn đến các vi khuẩn hay nấm (Vibrio, Pseudomonas) tấn công lên cơ thể con tôm dẫn đến xuất hiện những vết thương màu nâu hay đen, nổi thành gờ trên vỏ tôm hay các phụ bộ. Khi tôm bệnh cần giữ môi trường ao nuôi tốt và tranh việc xáo trộn môi trường nuôi, khi tôm bị bệnh có thể dùng kháng sinh Pizomex 10g/1kg thức ăn cho ăn liên tục trong 3 ngày hay dùng các sản phẩm có hoạt chất Iodine phun xuống ao nuôi 2-3 ngày.
Bệnh khác: Bệnh phồng mang do ký sinh, đen mang, đỏ đuôi, mềm vỏ… nếu găp với tỷ lệ trên 10% đàn tôm nhiễm bệnh cần xử lý. Vệ sinh môi trường nước ao nuôi tốt, thay nước kịp thời. Dùng sản phẩm có hoạt chất Iodine phun đều khắp ao nuôi, đồng thời dùng các sản phẩm premix trộn vào thức ăn nhằm giúp tôm tăng sức đề kháng và hấp thụ thức ăn tốt hơn.