Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những vùng biển có độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26-28 độ C, độ mặn khá cao (35 phần ngàn). Trứng nở ra ấu trùng và vẫn loan quanh ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn Potlarvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Sau 1 vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng bơi ngược ra biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm chọn chu kỳ. Tôm chân trắng lớn rất nhanh trong giai đoạn đầu, mỗi tuần có thể tăng trưởng 3g với mật độ 100con/m2 tại Hawaii không kém gì tôm sú, sau khi đã đạt được 20g tôm bắt đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần, tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực.
1. Chọn địa điểm xây dựng ao nuôi
Đây là vấn rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc đầu tư, xây dựng và mức độ rủi ro trong quá trình nuôi sau này, vì vậy khi chọn địa điểm xây dựng cần chú ý tới công việc chọn vùng nuôi cho phù hợp như nguồn nước, chất đất và cơ sở hạ tầng, thuận lợi về gao thông, gần nguồn điện, gần nơi cung cấp các dịch vụ cho nghề nuôi tôm, xa khu vực nước thải của các tập đoàn, xí nghiệp sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xa khu dân cư, đảm bảo an ninh trật tự tốt.
Vị trí và cơ sở hạ tầng
Vị trí: Hệ thống ao nuôi được xây dựng phải thoả mãn được các yêu cầu kỹ thuật, thuận lợi cho quá trình cấp và thoát nước, cao trình đáy ao phải cao hơn mương và cống thoát nước. Đất xây dựng phải có độ kết dính cao, thuận lợi cho quá trình thi công xây dựng ao nuôi, chất đất có độ pH = 5,0 – 6,0, tránh những vùng đất sình, lầy, bùn nhiều vì những vùng này sẽ gây khó khăn cho quá trình thi công xây dựng và quản lý chất lượng nước ao nuôi tôm sau này.
Nguồn nước: Nguồn nước đảm bảo được các thông số kỹ thuật, không bị ô nhiễm có độ mặn từ 10 – 30‰; pH ≥ 7…
Cơ sở hạ tầng: Vùng nuôi tôm chân trắng được xây dựng gần đường giao thông (đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không…) thuận lợi cho việc vận chuyển vật tư, thiết bị, thức ăn con giống và sản phẩm sau thu hoạch.
Thiết kế xây dựng ao nuôi
Công trình ao nuôi tôm chân trắng có kết cấu tương tự như công trình nuôi tôm sú. Mô hình nuôi phổ biến hiện nay là mô hình ít thay nước, năng suất cao. Diện tích ao nuôi được thiết kế từ 0,5- 1 ha. Hình dạng ao thường có dạng hình chữ nhật hoặc hình vuông mục đích để máy quạt nước dễ thu gom chất thải vào giữa ao. Đáy ao bằng phẳng, có độ dốc khoảng 150C nghiêng về phía cống thoát nước. Mặt khác khi thiết kế ao nuôi tôm cần chú ý tính đến các vấn đề sau:
– Vị trí cống lấy cấp nước và hệ thống trạm bơm nước.
– Hệ thống ao chứa nước, ao xử lý, ao lắng, hệ thống kênh mương cấp và thoát nước…
Ao chứa, lắng
Khu vực nuôi tôm phải có ao chứa và lắng để trữ nước và xử lý nước trước khi cấp cho các ao nuôi, Diện tích ao chứa, lắng thường bằng 25 – 30% diện tích ao nuôi, nếu có điều kiện xây dựng ao pha đấu nước ngọt để pha đấu với nước mặn theo yêu cầu của kỹ thuật nuôi thì càng thuận lợi. Hệ thống ao chứa, lắng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý môi trừơng ao nuôi, ngăn ngừa dịch bệnh lây lan. Đồng thời còn có chức năng lọc sinh học để cải thiện chất lượng nước trước khi cấp vào ao nuôi tôm.
Ao xử lý nước thải
Khu vực nuôi tôm cần phải xây dựng hệ thống ao xử lý nước thải, để xử lý nước thải, phục vụ cho quá trình thay nước ao nuôi và sau khi thu hoạch tôm cũng như khi cải tạo ao. Diện tích ao bằng 5 – 10% diện tích khu vực nuôi.
Hệ thống bờ ao, đê bao, mương cấp và thoát nước
Ao nuôi tôm thông thường có độ sâu 1,5-1,8 m và bờ ao tối thiểu cao hơn mặt nước 0,5 m, độ dốc của bờ phụ thuộc vào độ kết dính của đất, nếu đất cát bờ ao nên có độ dốc là 1/1,5, đất sét hoặc đất pha sét độ dốc bờ ao nên là 1/
Mương cấp và mương thóat nước
– Mương cấp nước và mương thoát nước phải được xây dựng riêng biệt, lưu lượng và lưu tốc của dòng chảy phù hợp với yêu cầu kỹ thuật khi cấp và thay nước cho ao nuôi tôm. Hệ thống mương cấp và mương thoát bằng 10% diện tích ao nuôi.
Cống cấp và cống thoát nước
Nếu có điều kiện nên xây dựng mỗi ao có hệ thông cống cấp nước và thoát nước riêng biệt, khẩu độ cống phụ thuộc vào diện tích ao, ao nuôi có diện tích 0,5-1 ha thì khẩu độ cống từ 0,5-1 m.
Vị trí đặt máy sục khí
Máy sục khí có nhiều chức năng, đặc biệt trong các ao nuôi tôm thâm canh là tạo dòng chảy, thu gom chất thải trong ao và cung cấp ôxy cho tôm nuôi. Vị trí đặt máy đảo nước, máy sục khí phụ thuộc vào hình dạng ao, chú ý khi máy đảo nước chạy phải tạo ra dòng chảy tròn trong ao, tạo khu vực đáy ao sạch càng rộng càng tốt, không làm các chất thải lắng tụ trong ao bị xáo trộn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý môi trường và chất thải trong ao nuôi tôm.
2. Chuẩn bị ao nuôi
Chuẩn bị ao nuôi tôm là khâu quan trọng đầu tiên trong một vụ nuôi. Sau khi thu hoạch, cần loại bỏ lớp bùn đen ra khỏi đáy ao bằng cách tháo cạn nước và phơi khô đáy ao, sau đó dùng xẻng hoặc cào sắt nạo vét hết lớp bùn và chất lắng đọng hôi thối ở đáy ao ra ngoài. Tiến hành phơi khô đáy ao, gia cố, chống sạt lở bờ ao và cải tạo ao.
Cải tạo ao:
Đối với ao mới xây dựng xong cho nước vào ngâm 2 – 3 ngày rồi xả hết nước, ngâm và tháo rửa như vậy 2 – 3 lần.
Đối với ao đã sử dụng: Có hai phương pháp cải tạo ao: Cải tạo khô hoặc cải tạo ướt, cũng có thể kết hợp giữa cải tạo khô và cải tạo ướt, tuỳ thuộc vào chất đất, độ pH của đất, điều kiện vùng nuôi để có phương pháp cải tạo ao thích hợp đảm bảo nền đáy ao sạch, chất lượng nước tốt và ổn định.
Bón vôi
Có nhiều loại vôi sử dụng được trong ao nuôi tôm, nhằm diệt tạp, nâng cao pH, tăng khả năng đệm của nước ao nuôi.
Sau khi dọn sạch chất thải cần cho một ít nước vào ao để rửa trôi các chất lắng đọng và mảnh vụn hữu cơ, kiểm tra độ pH của đất, nước. Đóng cống ngâm đáy ao qua một đêm sau đó tháo cạn nước ao cứ làm như vậy lặp đi lặp lại nhiều lần cho tới khi pH ổn định ≥ 7
Lượng vôi sử dụng cho ao lần cuối cùng phụ thuộc vào chất đất của đáy ao và độ pH
Một số loại vôi thường dùng để cải tạo ao và bón định kỳ cho ao nuôi tôm là: vôi nông nghiệp/ đá vôi hoặc vỏ sò xay CaCO3; Đá vôi đen (CaMg(CO3)2; Vôi tôi hay vôi ngậm nước Ca(OH)2; Vôi sống CaO (vôi nung hoặc vỏ sò nung).
Bảng: Lượng vôi dùng cho quá trình cải tạo ao nuôi tôm
ĐỘ PH ĐẤT | LƯỢNG VÔI CACO3 (KG/HA) | LƯỢNG VÔI CA(OH)2 KG/HA |
---|---|---|
pH > 6 | pH = 5 – 6 | pH < 5 |
< 1.000 | < 2.000 | < 3.000 |
300 – 400 | 500 – 800 | 900 – 1.000 |
Chuẩn bị nước cho ao nuôi
Sau khi cải tạo ao, loại bỏ lớp bùn đen ở đáy ao, rửa ao, bón vôi, diệt tạp tiến hành lấy nước vào ao.
– Nước biển lấy vào ao chứa qua cửa cống khi thuỷ triều cao nhất, Sau đó xử lý và bơm nước vào ao nuôi. Những vùng nuôi không có ao chứa, lắng thì lấy trưc tiếp vào ao nuôi, nhưng cần phải xử lý thuốc tím KMnO4 nồng độ 3-5ppm hoặc Saponine nồng độ 10-15ppm. Sau khi nước trong tiến hành gây màu nước.
Gây màu nước: Thực chất là tạo môi trường thuận lợi cho tảo phát triển, tảo quang hợp mạnh sẽ cung cấp nhiều ôxy cho ao nuôi tôm. Chúng ta nên sử dụng các loại phân vô cơ NPK, phân vi sinh, men vi sinh hoặc chế phẩm sinh học bón xuống ao . Khoảng 7-10 ngày sau khi sử dụng phân bón, tảo trong ao phát triển, màu nước của ao có màu xanh nhạt thì chúng ta tiến hành thả tôm giống.
Với cách chuẩn bị như thế, hầu hết các ao nuôi tôm thâm canh sau khi thả tôm giống một tháng không phải thay nước, chỉ cần bổ sung lượng nước hao hụt từ ao chứa, lắng (đã xử lý ) khoảng 20-30cm/lần và giữ mực nước ở ao nuôi với độ sâu tối thiểu từ 1-1,2m.
3. Chọn tôm giống và mật độ thả nuôi
Chọn tôm giống
Mục đích của việc chọn giống tôm và thả nuôi là đưa vào ao nuôi một lượng tôm giống phù hợp có chất lượng cao nhằm đạt năng suất ổn định.
Chọn con giống có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định phân lớn đến kết quả nuôi, việc đảm bảo đủ số lượng giống tôm thả nuôi theo yêu cầu ở các địa phương không phải là chuyện khó khăn. Tuy nhiên, để chọn được giống tốt, ít mầm bệnh hoặc sạch bệnh, đảm bảo tỷ lệ sống cao khi nuôi là việc làm hết sức cần thiết. Vì vậy khi chọn giống tôm thả nuôi cần dựa vào một số tiêu chuẩn sau:
– Kích thước, màu sắc, độ đồng đều của quần đàn, khả năng vận động đồng thời trước khi thả nuôi cần thiết phải kiểm tra tỷ lệ cảm nhiễm MBV và xét nghiệm đốm trắng (SEMBV) bằng phương pháp PCR.
– Mặt khác cần chọn giống tôm có nguồn gốc Hawaii, hoặc mua tại các công ty có uy tín, có chứng nhận xuất xứ nguồn gốc, con giống được sản xuất từ bố mẹ sạch bệnh (SPF) hoặc kháng bệnh (SPR).
Thả tôm giống
Việc thả giống tôm chân trắng cũng tương tự như tôm sú, tuy vậy có điểm khác là mật độ thả nuôi, do thời gian nuôi ngắn (trung bình từ 2,5-3 tháng) và kích cỡ thu hoạch nhỏ từ (80-100 con/kg), cho nên mật độ thả (từ 80-100 con/m2 là phù hợp.
4. Quản lý chủng loại thức ăn và số lượng thức ăn trong ao nuôi tôm
Chủng loại thức ăn
Thức ăn sử dụng cho tôm nuôi hiện nay trên thị trường có rất nhiều nguồn: Thức ăn công nghiệp ngoại nhập, thức ăn công nghiệp sản xuất trong nước, thức ăn khô tự chế biến, thức ăn tươi…Trong quá trình nuôi tôm chân trắng chúng ta nên sử dụng thức ăn công nghiệp có độ đạm vừa phải (thấp hơn 38%).
Quản lý thức ăn và cho tôm ăn
Quản lý thức ăn là khâu rất quan trọng vì chi phí thức ăn cho một vụ nuôi chiếm tỷ lệ cao trong quá trong nguồn vốn đầu tư (45-50%) tổng chi phí sản xuất. Mục tiêu của nghề nuôi tôm là giảm giá thành, đạt lợi nhuận cao nhất và phát triển bền vững.
Xác định lượng thức ăn và cho tôm ăn
Lượng thức ăn hàng ngày cho tôm ăn dựa vào số lượng và trọng lượng trung bình của tôm nuôi. Tổng trọng lượng tôm nuôi được xác định theo công thức:
∑P tôm = PTB x ∑ Q
- P: tổng trọng lượng tôm trong ao nuôi
- PTB: trọng lượng trung bình của 1 cá thể
- Q: số lượng tôm trong ao nuôi
(Số lượng tôm trong ao nuôi được ước lượng theo tỷ lệ sống trong quá trình nuôi hoặc tôm lớn thì dùng chài kiểm tra).
Lượng thức ăn cho tôm ăn: Do sự trao đổi chất của tôm giảm dần theo sự gia tăng của trọng lượng. Bởi vậy lượng thức ăn cho tôm ăn hàng ngày tăng về giá trị tuyệt đối và giảm dần về giá trị tương đối theo sự lớn lên của tôm. Khẩu phần ăn của tôm tính theo phần trăm trọng lượng thân sẽ giảm dần trong chu kỳ nuôi.
KHỐI LƯỢNG CƠ THỂ (WG) | MỨC CHO ĂN (% KHỐI LƯỢNG CƠ THỂ) |
---|---|
2 | 6,5 |
5 | 5,5 |
10 | 4,5 |
20 | 3,5 |
25 | 3,2 |
30 | 2,8 |
Số lần cho ăn: Trong điều kiện nhiệt độ bình thường thời gian thức ăn đi qua ruột từ 4-6 giờ, nên số lần cho ăn trong ngày là 4 lần là phù hợp. Thời gian đầu nhờ có lượng thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao, chúng ta nên cho tôm ăn 3 lần/ngày vào lúc 6h; 17 h và 23 h sau đó sang tháng thứ 2 tăng lên 4 lần /ngày và duy trì đến cuối vụ nuôi.
– Phương pháp cho tôm ăn: Tập tính tôm chân trắng trong ao không bơi thành đàn để tìm thức ăn , vì vậy khi cho tôm ăn cần rải đều thức ăn khắp ao.
– Tháng đầu thả nuôi, tôm giống còn nhỏ, khả năng hoạt động, bơi lội còn yếu, sự phân bố của tôm trong ao không đều, việc sử dụng thức ăn còn ít, chủ yếu sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao. Thời gian này tôm phân bố ven bờ, vì vậy khi cho tôm ăn thức ăn công nghiệp cần rải đều ven bờ ao để tôm dễ bắt mồi. Khi kích cỡ tôm nuôi lớn thì tôm phân bố cách xa bờ hơn và đều khắp ao. Thời gian này khi cho tôm ăn cần rải thức ăn đều khắp ao.
Lượng thức ăn hàng ngày cho tôm ăn dựa vào bảng hướng dẫn cụ thể của hãng thức ăn mà người nuôi tôm đang sử dụng. Thông thường tháng đầu tiên tính lượng thức ăn hàng ngày bằng 1000/0 trọng lượng thân với tỷ lệ sống 100%.
Hàng ngày cần kiểm tra cường độ bắt mồi của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp theo từng lần cho ăn trong ngày (dựa vào thức ăn trong nhá tôm ăn còn nhiều hay hết). Đặc biệt tôm đang trong thời kỳ lột xác, thời gian thay nước, hoặc khí hậu, thời tiết thay đổi, môi trường ao nuôi có sự thay đổi cần giảm lượng thức ăn tránh hiện tượng dư thừa thức ăn gây ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Khi cho ăn thường dùng “nhá” hoặc vó để kiểm tra thức ăn. Lượng thức ăn cho vào một “nhá” được tính theo công thức.
Lượng thức ăn trong một nhá = Khối lượng thức ăn cho tôm ăn x Số thức ăn cho vào nhá x 1600
Diện tích ao nuôi
Số nhá sử dụng để kiểm tra thức ăn trong ao nuôi
Số nhá sử dụng để kiểm tra thức ăn = Diện tích ao nuôi
Số thức ăn cho vào nhá phụ thuộc vào thời gian và trọng lượng của tôm nuôi
5. Quản lý chất lượng nước
Sử dụng phương pháp nuôi không thay nước. Cứ 1 tuần sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý môi trường nước. Chế phẩm sinh học có nhiều loại, nên dùng kết hợp chế phẩm sinh học xử lý đáy và xử lý môi trường nước ao nuôi. Khi môi trường có sự biến động về pH, tảo nên dùng vôi để điều chỉnh.
Quy trình nuôi tôm thâm canh ít thay nước thì 1-2 tháng đầu tiên không thay nước, chỉ cần bổ sung lượng nước cho ao nuôi do bốc hơi và thẩm thấu. Các tháng tiếp theo chỉ cần thay nước khi thật sự cần thiết để quản lý chất lượng nước giúp cho tôm nuôi sinh trưởng và phát triển tốt hơn.
6. Sục khí
Hiện nay trong nuôi tôm thâm canh ở các tỉnh Nam Trung Bộ và các tỉnh phía bắc đều sử dụng máy quạt nước (máy đảo nước), tạo dòng chảy kích thích tôm vận đông bắt mồi, thu gom chất thải tạo nền đáy ao sạch giúp tôm bắt mồi tốt, kích thích tảo phát triển hạn chế mức dư dinh dưỡng do dư thừa thức ăn tạo nên. Đồng thời tạo dưỡng khí cho tôm hoạt động.
Số lượng máy quạt nước phụ thuộc vào số lượng tôm thả nuôi và diện tích ao. Thông thường một cặp cánh đảo nước có thể cung cấp đủ dưỡng khí cho 3000-4000 con tôm (ao nuôi 0,5-1a, mật độ thả nuôi 80-100con/m2) thì dùng từ 4-5 máy quạt nước, mỗi máy khoảng 12-15 cánh quạt. Vị trí đặt máy quạt nước trên bờ ao phải đảm bảo tạo dòng chảy tốt trong ao.
7. Thu hoạch tôm
Trước khi thu hoạch khoảng 20 ngày, nếu độ mặn trong ao thấp, cần thiết phải tăng độ mặn, để thịt tôm săn và chắc. Đồng thời ngưng sử dụng thuốc hoặc các loại hoá chất khác, tránh hiện tượng tồn lưu và dư kháng sinh trong thịt tôm. Phương pháp thu hoạch tổng thể (thu toàn bộ), mắc lưới, đọn tháo nước qua cống hoặc bằng xiếc điện…đảm bảo tôm sạch, tươi xuất bán được giá cao.
8. Biện pháp phòng và trị một số bệnh trong nuôi tôm chân trắng
Tôm chân trắng trong tự nhiên cũng nhiều bệnh như các loại tôm khác. Song nhờ kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở viện hải dương Hawaii -Mỹ đã tuyển chọn và nhân giống được đàn tôm bố mẹ không mang mầm bệnh đặc biệt nguy hiểm là bệnh đốm trắng, bệnh đỏ đuôi. Do vậy đàn tôm sạch bệnh SPF (Specific Pathogen Free) hoặc kháng bệnh SPR ( Specific Pathogen Resistant ) được chọn làm tôm bố mẹ nhằm tạo ra đàn tôm giống chất lượng cao, đảm bảo cung cấp, phục vụ tốt cho người nuôi tôm thương phẩm đạt được năng suất và sản lượng cao.
Một số dấu hiệu của bệnh tôm
Thông thường màu sắc của tôm có liên quan đến các điều kiện môi trường sống của chúng. Sự thay đổi của vỏ tôm có thể biểu hiện sức khoẻ của tôm. Tôm yếu thường chuyển màu xanh da trời, màu trở đỏ, màu nhợt nhạt hoặc trên vỏ có các chấm đen… khác biệt với màu sắc bình thường của tôm.
Mặt khác quan sát kỹ ở trên các phần phụ bộ chân bơi, chân bò, đuôi bị hoại tử biến dạng…, tôm lột xác khó cứng vỏ. Các hiện tượng khác như: Tôm đóng rong, có những biến đổi ở mang, ruột, cơ ( thịt tôm)…
9. Một số bệnh thường gặp và cách phòng trị
Bệnh thối mang
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Tia mang biến thành màu xám hoặc màu đen, mang to lên và cong queo, nếu bệnh nặng hơn kiểm tra trên kính hiển vi thấy có nhiều vi khuẩn và vi sinh vật bám.
Cách phòng trị: Cấp thêm nước mới, quản lý chất lượng nước bằng các loại men vi sinh và chế phẩm sinh học, hoặc dùng tỏi xay nhuyễn vắt lấy nước trộn vào thức ăn, hoặc dùng Iodine nồng độ:1-5 ppm tạt đều trên mặt ao.
Bệnh thối đuôi
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Bệnh nhẹ thì đuôi biến thành màu đen rách từng góc, nặng thì đuôi sưng tấy to, có dịch bên trong chân tôm bị đứt. Bệnh này phổ biến với tôm chân trắng. Nguyên nhân do bị cảm nhiễm nhiều loại vi khuẩn ăn mòn vỏ kitin
Cách phòng trị: Dùng Iodine nồng độ: 1-5 ppm tạt dều trên ao hoặc dùng Saponin nồng độ: 10-15 ppm ( ngâm nước tạt đều trên ao).
Bệnh đỏ chân
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Do phần gốc chân phần đầu ngực hay ở mang hoặc trên vỏ giáp khu vực tim có những đốm trắng sau lan dần ra các đốt ở phần bụng, 2 bên có những đốm trắng đối xứng nhau, phát triển thành màu đen, cũng có trường hợp cả màu đen và trắng cùng tồn tại. Nếu tỷ lệ cảm nhiễm cao thì tỷ lệ chết cũng cao. Nguyên nhân có thể do virus, hoặc do thiếu dinh dưỡng và vitamin.
Cách phòng trị: Khâu cải tạo ao làm triệt để đúng quy trình. Đồng thời chăm sóc, quản lý môi trường ao nuôi tốt (đặc biệt chất lượng nước ao nuôi). Dùng Oxytetracyline nồng độ 2-5ppm trộn vào thức ăn cho tôm ăn.
Bệnh nấm tơ bám
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Mang tôm biến màu đen hoặc màu nâu, các chân ngực hay chân bơi có màu xám bám đầy lông tơ. Nếu bệnh nặng thì mang chuyển sang màu vàng, xám, xanh trên đó có đầy lông tơ bám gây ảnh hưởng đến quá trình hô hấp, lột xác của tôm. Nguyên nhân do nước ao quá bẩn do đó vi khuẩn Leucothrix mucor có cơ hội phát triển phá hoại tế bào mang và biểu bì của tôm tạo điều kiện thuận lợi cho nấm ký sinh phát triển.
Cách phòng trị: Giu cho môi trường ao nuôi sạch, không ô nhiễm dùng Saponin từ 2-5ppm hoặc thuốc tím KMnO4 nồng độ 0, 5-3ppm, hoặc dùng formol nồng độ 5-10ppm.
Bệnh tiêm mao trùng
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Tiêm mao trùng bám vào mang, chân bơi, chân bò, mắt vỏ giáp… làm thành một lớp lông tơ có màu đen (xem kính hiển vi), tôm bị bệnh thường nổi lên mặt nước, bơi lờ đờ, bỏ ăn, phản ứng chậm, không lột xác được. Mặt khác ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hô hấp của tôm ( tiêm mao trùng có nhiều loại: trùng hình chuông, hình roi, hình đế dầy…) nguyên nhân do chất lượng nước ao nuôi tôm xấu.
Cách phòng trị: Gĩư cho môi trường nước ao nuôi sạch, định kỳ dùng men vi sinh và chế phẩm sinh học, Dolomid, zeolite, Saponin, KMnO4, formol, Iodine…
Bệnh đốm đen
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Vỏ giáp đầu ngực hoặc chân bơi, chân bò của tôm chuyển thành màu đen hoặc đốm đen sau đó lõm xuống tạo thành vết. Nếu bệnh nặng thì các phần phụ chân bơi, chân bò bị, lở, loét hoặc đứt…Nguyên nhân có thể do vi khuẩn xâm nhập vào.
Cách phòng trị: Dùng formol nồng độ 15-25ppm, sau đó thay nước mới. Kết hợp trộn thuốc Aureomycin hoặc Oxytetracyline từ: 0,5-3ppm
Bệnh mềm vỏ
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Tôm có màu xỉn, sau khi tôm lột xác vỏ không cứng, vỏ bị mềm, vỏ rời thịt, tôm bơi chậm chạp, bỏ ăn, không lột xác được và chết. Nguyên nhân do môi trường nước ao nuôi xấu, tôm kém ăn, thức ăn không đủ dinh dưỡng kéo dài…
Cách phòng trị: Cấp nước mới, quản lý đáy ao, thức ăn dư thừa, điều chỉnh sự phát triển của tảo phù hợp. Dùng chế phẩm sinh học- men vi sinh cải thiện đáy ao và nước nuôi, giữ pH ổn định trong khoảng 7,5-8,5.
Bệnh co cơ hay (hoại tử ở cơ)
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Phần bụng tôm có màu trắng đục có khi toàn thân trắng trắng đục. Có những trừng hợp toàn thân tôm co cứng lại mắt lồi ra rồi chết. Nguyên nhân do có sự thay đổi đột ngột của môi trường: nhiệt độ tăng cao hoặc nồng độ muối quá lớn…
Cách phòng trị: thả mật độ tôm vừa phải, phù hợp với trình độ quản lý, kỹ thuật, mùa vụ, thời tiết khí hậu của từng địa phương. Vào mùa nóng hoặc mùa lạnh ao nuôi tôm phải đạt được độ sâu mực nước ≥ 2m.
Bệnh đầu vàng
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Bệnh đầu vàng (YHV), chỉ là sợi đơn hình que được bao bọc bởi bào chất, virus gần giống với các virus thuộc họ Coronavus. Có 2 dạng bệnh đầu vàng gây chết cấp tính hoặc gây bệnh mãn tính. Tôm bệnh đầu vàng dạng cấp tính thường chết vào khoảng 20-45 ngày nuôi với mức độ chết 1000/00 trong vòng từ 3-5 ngày. Thân tôm thường chuyển sang màu tái, mang và gan tuỵ có màu vàng nhạt. Tôm bệnh đầu vàng dạng mãn tính thường chỉ gây chết ở tháng nuôi thứ ba trong điều kiện không quản lý được môi trường ao nuôi.
Cách phòng trị: Hiện nay vẫn chưa có biện pháp chữa trị. Phòng bệnh, tránh lây lan là chủ yếu( kiểm dịch tôm bố mẹ, tôm giống, cải tạo ao đìa, quản lý môi trường ao nuôi, thức ăn tốt). Nếu dịch bệnh bùng phát phải xử lý kịp thời và triệt để, tránh mầm bệnh phát tán lây lan…
Bệnh đốm trắng
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Tác nhân gây bệnh là do virus gây hội chứng đốm trắng (wssv). Đốm trắng do virus thường xuất hiện ở vỏ đầu ngực và ở phần đuôi đốt bụng 5&6. Các đốm trắng thường có kích thước đều nhau tròn và có tâm trong. Dạng đốm trắng nhỏ li ti gây chết tôm nhanh và tỷ lệ chết cao hơn so với dạng đốm trắng lớn. Bệnh này là bệnh nguy hiểm nhất hiện nay và gây thiệt hại nghiêm trọng, tỷ lệ tôm chết lên đến 1000/0 trong vòng từ 2-7 ngày.
Cách phòng trị: Xét nghiệm chọn giống sạch bệnh kết hợp với gây sốc tôm post với formol, loại những cá thể post yếu trước khi thả nuôi. Chọn mùa vụ nuôi thích hợp, tránh lấy nước trực tiếp từ ngoài tự nhiên mà nên để lắng khoảng thời gian ít nhất 5-7 ngày, nhằm giảm thiểu virus trong nước cấp. Đồng thời hạn chế mức thấp nhất sự xâm nhập của các tác nhân chuyên chở mầm bệnh như các loại giáp xác hoang dã. Định kỳ xử lý formol 25-30pmm. Chưa có thuốc trị. Chưa có vaxcine phòng bệnh.
Bệnh nhũn mắt
Triệu chứng và tác nhân gây bệnh: Do virus xâm nhập cầu mắt của tôm phồng lên, mắt từ màu đen chuyển sang màu tro, dần dần hình thành một màng trắng che lấy mắt, nếu tôm bị bệnh nặng thì toàn thân tôm cũng biến thành màu trắng, hoạt động bơi lội bắt mồi kém, tôm kém ăn, dạt vào bờ hoặc quay tròn trên mặt nước. Tôm nuôi chết sau 5-7 ngày.
Cách phòng trị: Quản lý môi trường ao nuôi tốt, chất lượng nước và một số yếu tố môi trường ổn định ( như:pH, nhiệt độ nước, sự phát triển của tảo, màu nước ao, đáy ao…). Chưa có thuốc và vaxcine phòng, trị.
Khuyến cáo: Xử lý bệnh virus đốm trắng và đầu vàng…tránh lây lan trong vùng nuôi tôm thâm canh.
– Trường hợp tôm nuôi phát bệnh trong thời gian tháng đầu: Xử lý chlorine 30-40mg/l để diệt hết tôm trong ao. Sau 15 ngày nước ao trở nên an toàn, tiến hành cải tạo ao mới thả tôm trở lại.
– Nếu tôm phát bệnh ở tháng nuôi thứ hai: Tiến hành thu bớt tôm bằng xiếc điện, không xả nước ra ngoài. Sau đó xử lý ao nuôi như trên.
– Nếu tôm phát bệnh ở tháng nuôi thứ ba: Tiến hành thu tôm ngay, sau đó xử lý nước trong ao như trên và tiến hành cải tạo lại ao mới thả tôm giống.
Hội chứng taura (TSV)
Tác nhân gây bệnh: Hội chứng Taura (TSV) gây ra bởi virus hội chứng taura ( TSV). Nó tạm thời được xếp vào họ Picomaviridae (dựa vào hình thái học của nó).
Dấu hiệu bệnh lý: Hội chứng Taura gây hại nghiêm trọng cho hậu ấu trùng tôm chân trắng (P. vannamei) khoảng 14-40 ngày tuổi, sau khi thả vào ao nuôi, tuy nhiên ở các giai đoạn lớn hơn chúng vẫn có thể bị lây nhiễm nặng. Hội chứng Taura được chia thành 3 giai đoạn:
10. Giai đoạn cấp tính:
ở giai đoạn này phần lớn tôm nuôi bị chết hàng loạt. Ở giai đoạn cấp tính biểu mô cutin bị tác động mạnh nhất. Tỷ lệ tôm chết cao (40-900/00). Số tôm còn lại sống sót sẽ chuyển qua một giai đoạn chuyển tiếp ngắn rồi sang giai đoạn mãn tính và có thể sống sót. Giai đoạn cận lâm sàng của việc nhiễm bệnh này được coi là có tham gia vào việc lan truyền bệnh qua vật mang virus Taura sống.
11. Giai đoạn mãn tính của vật mang bệnh:
Ở giai đoạn mãn tính, cơ quan bạch huyết là nơi có ưu thế bị bệnh hơn cả.
Các biện pháp kiểm soát bệnh: Khả năng loại trừ bệnh phụ thuộc vào việc loại bỏ hoàn toàn nguồn tôm lây nhiễm, việc tiệt trùng cơ sở nuôi, tránh tái nhiễm virus ( từ các thiết bị nuôi ở gần đó, tôm tự nhiên hoặc các vật mang bệnh cận lâm sàng…) và thả lại tôm giống mới sạch virus hội chứng Taura (TSV), từ nguồn tôm bố mẹ sạch bệnh virus hội chứng Taura.